Nhận định Phan Thanh Giản

Về lối sống

Mộ Phan Thanh Giản

Phan Thanh Giản được nhiều người kính trọng vì tính cương trực, khẳng khái, hiếu nghĩa, thanh liêm.[7]

Một sĩ quan Pháp là Reunier, người đã từng tham gia chiến tranh ở Trung QuốcNam Kỳ từ 1857 đến 1863 và cũng là một trong những người chống đối dự án triệt binh của Pháp ra khỏi Nam kỳ. Năm 1864, Reunier xuất bản dưới bút hiệu H.Abel hai quyển sách là La question de Cochinchine au point de vue des interets Francals và Solution pratique de la quesstion de Cochin-chine, trong đó ông đã có nhận xét về Phan Thanh Giản như sau:

Sống trong 4 tháng gần vị lão thành cao thượng ấy, chúng tôi có thể đánh giá các đức tính của ông ta... trong thời gian vượt biển này (chuyến đi sứ sang Pháp) ông không ngớt được khuyến khích bởi lòng nhiệt thành ái quốc của ông, và thúc đẩy bởi nguyện vọng thực hiện được công chuyện hữu ích cho nước nhà...[8]

Trong sách Đi & ghi nhớ của Sơn Nam (xuất bản năm 2008), một lần nữa, nhân vật lịch sử Phan Thanh Giản lại được đề cập trong một đoạn viết như sau:

Hồi xưa, lúc còn nhỏ, tôi (lời thuật của một giáo viên lớn tuổi đi cùng với Sơn Nam) được dạy cẩn thận, khi đi ngang qua miếu Văn Thánh, học trò phải giở nón, cúi đầu để chào ông Phan. Chào ông Phan, (được xem như) là lời thề rửa hận cho ông, cho chớ không phải để bắt chước ông... Người có công nghiên cứu về Phan Thanh Giản là Lê Thọ Xuân, đăng báo Đồng Nai đâu từ năm 1931... với những chi tiết thú vị. Tuy làm quan to nhưng ông tự xem mình như người dân thường ở nông thôn, đối xử như người bình dân, không bao giờ phô trương quyền lực. Xin đề nghị: Trong chương trình Sử học cho học sinh, nên có một bài nói về ông, đủ lý đủ tình... Ông đã để lại cho đời sau chút gì khó quên, khó xóa nhòa, gọi là tâm linh, phóng khoáng, thơ mộng.[9]

Thái độ với Pháp

Trong cơn nước biến khi Pháp xâm chiếm Việt Nam, thái độ chủ hòa, đề nghị người Việt đầu hàng, không kháng cự của ông khiến không ít người đã phê phán.

Ngày 5 tháng 6 năm 1862, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp có Trương Vĩnh Ký làm thông ngôn đã ký với Bonard và Palanca một hiệp ước gọi là Hòa ước Nhâm Tuất (1862), cắt đứt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp, bồi thường chiến phí trong 10 năm, mỗi năm 400 ngàn quan cho đại diện của Pháp ở Sài Gòn. Trước đó, vua Tự Đức dặn rằng có thể chấp thuận bồi thường chiến phí chứ tuyệt đối không được cắt lãnh thổ đất nước cho Pháp. Biết tin Phan – Lâm không làm theo lời dặn, vua Tự Đức đã trách mắng[10]:

“Ôi con dân mấy triệu, tội gì mà khổ thế? Thật là đau lòng. Hai người không những chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân muôn đời của hậu thế”.

Do hành động này mà dân gian có câu truyền "Phan Lâm mãi quốc, triều đình khí dân" (Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp bán nước; triều đình bỏ dân chúng).

Tháng 11 năm 1868, vì làm mất Nam Kỳ, Triều đình Huế đã xử ông án "trảm quyết" (nhưng vì chết nên được miễn), lột hết chức tước và cho đục bỏ tên ông ở bia tiến sĩ. Mãi đến 19 năm sau (1886), dưới thời Pháp thuộc, ông được vua Đồng Khánh khôi phục nguyên hàm Hiệp tá đại học sĩ và cho khắc lại tên ở bia tiến sĩ[11]. Việc vua Đồng Khánh khôi phục chức vị cho Phan Thanh Giản có lẽ là do sức ép của Pháp, vì chính Đồng Khánh cũng là ông vua do Pháp đưa lên ngôi để có danh nghĩa chống lại vị vua yêu nước Hàm Nghi.

Cũng có những trí thức đương thời thì tỏ ra thông cảm cho ông. Như Nguyễn Thông đã từng dâng sớ lên vua Tự Đức để giãi bày nỗi lòng cho ông. Và nhà thơ đương thời Nguyễn Đình Chiểu cũng đã tỏ thái độ thương tiếc, trân trọng ông qua bài thơ điếu:

Non nước tan tành hệ bởi đâu?Dàu dàu mây bạc cõi Ngao châuBa triều công cán đôi hàng sớSáu tỉnh cương thường một gánh thâuTrạm Bắc ngày chiều tin điệp vắngThành Nam đêm quạnh tiếng quyên sầuMinh tinh chín chữ lòng son tạc,Trời đất từ rày mặc gió thu.

Sau khi chiếm ba tỉnh miền Đông, quân Pháp tiếp tục đánh chiếm ba tỉnh miền Tây, lúc đó Phan Thanh Giản với chức Kinh lược toàn quyền quân sự và dân sự ba tỉnh miền Tây, song ông đã đầu hàng. Theo lệnh của La Grandière, Phan gởi công thơ cho quan Tổng đốc An Giang, Hà Tiên như sau:

Hỡi các quan và dân chúng!… Bản chức van vái trời, bản chức nghe theo lẽ phải và tự nhủ: “Mình còn ngốc khi mình đánh người Phú lang sa bằng võ khí, cũng như con nai con muốn bắt con cọp. Mình lại kéo về phe mình một cách vô ích những tai họa lớn, để tai hại ấy đè lên đầu dân mà trời đã giao cho mình chăn. Vậy bản chức viết công thơ cho các quan văn cũng như các tướng võ hãy bẻ gãy giáo và gươm giao thành trì khỏi chống lại…”[10]

Quả là hững lời bạc nhược, hèn kém. Cho dù ông có văn thơ hay đến đâu, viết sử giỏi đến đâu thì cũng vô nghĩa mà thôi. Không chỉ lỡ một lần mà hai lần "bán nước". Một lần cát ba tỉnh miền đông và một lần dâng hiến nốt ba tỉnh miền Tây... đầu hàng đến mức xấu hổ.

Trong văn bia tại lăng mộ, vua Tự Đức kết tội những quan đại thần được sai đi bàn định điều ước với Pháp (trong đó Phan Thanh Giản dẫn đầu), rằng "không hiểu vì lý do gì lại dễ dàng lập thành hòa nghị. Bỗng chốc đem cả nhân dân cùng đất đai của các triều nhọc nhằn gây dựng cho giặc hết..."

Vua Tự Đức còn có kết luận rằng: " Hai ngươi (chỉ Phan và Lâm) không chỉ là tội nhân của triều đình mà còn là tội nhân của vạn thế.!

Tuy vậy ông có Hai con trai, Phan Tôn (1837 - 1893), Phan Liêm (1833 - 1896), nổi lên chống Pháp tại tỉnh Vĩnh Long.

Năm 1963, hành động giao nộp ba tỉnh miền Tây, được Trần Huy Liệu đem ra bàn luận, và đã kết tội ông là kẻ bán nước.[12]

Sau 1975, nhiều đường phố ở miền Nam Việt Nam mang tên Phan Thanh Giản đã bị đổi thành tên khác.[13][14]

Liên quan